Một số sự kiện trong
ngày 8 tháng 5:
Việt Nam
* Ngày 8-5-1946; Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ
cộng hoà ra sắc lệnh về việc thành lập các cơ quan lao động trong cả nước.
Nhiệm vụ của các cơ quan này là: bảo đảm và bênh vực
quyền lợi cho công nhân; dung hoà quyền lợi giữa chủ và thợ, kiểm soát việc thi
hành các luật lệ về lao động, giải quyết các vấn đề về lao động và phân phát
nhân công cho các ngành.
* 8-5-1950, theo các tài liệu của Mỹ, Tổng thống Mỹ ký
quyết định chính thức viện trợ quân sự cho thực dân Pháp tiến hành cuộc chiến
tranh xâm lược Đông Dương. Ngày này được coi như là một cái mốc đánh dấu sự
dính líu của Mỹ vào Việt Nam. Phái đoàn cố vấn và viện trợ quân sự Mỹ (MAAG)
khoảng hơn 20 người được cử tới Sài Gòn ngày 26-6-1950. Nǎm 1954, sau khi thực
dân Pháp thua trận ký Hiệp định Giơnevơ, lập lại hoà bình ở Đông Dương, phái
đoàn MAAG bị bãi bỏ.
* Ngày 8-5-1954 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư khen
bộ đội, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào Tây Bắc đã chiến thắng vẻ
vang ở Điện Biên Phủ.
Trong thư Bác viết: "Thắng lợi tuy lớn nhưng mới
chỉ là bước đầu. Chúng ta không nên vì thắng lợi mà kiêu, không nên chủ quan
khinh địch. Chúng ta kiên quyết kháng chiến để giành lại độc lập, thống nhất,
dân chủ, hoà bình. Bất kỳ đấu tranh về quân sự hay ngoại giao cũng phải đấu
tranh trường kỳ mới đi đến thắng lợi hoàn toàn.
* Từ ngày 8 đến ngày 20-5-1954 đã diễn ra Hội nghị
Giơnevơ về Đông Dương. Mục đích của hội nghị là bàn về vấn đề lập lại hoà bình ở
Đông Dương. Tham gia hội nghị có các ngoại trưởng Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Mỹ,
các bên tham chiến gồm Việt Nam dân chủ cộng hoà, Pháp và Ngụy quyền.
Tại hội nghị, đồng chí Phạm Vǎn Đồng, trưởng đoàn đại
biểu Chính phủ VNDCCH đã tuyên bố lập trường cǎn bản của Chính phủ và nhân dân
ta là hoà bình, độc lập, dân chủ, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam.
Sau khi nhắc lại quá trình thành lập nước VNDCCH, vạch
rõ âm mưu can thiệp ngày càng trắng trợn của đế quốc Mỹ vào cuộc chiến tranh
Đông Dương và nêu rõ những thắng lợi của cuộc kháng chiến của nhân dân Việt
Nam, đồng chí Phạm Vǎn Đồng đề nghị 8 điểm cụ thể làm nền tảng thảo luận nhằm
giải quyết việc lập lại hoà bình ở Đông Dương.
Ngày 20-5, Hội nghị đã kết thúc thắng lợi. Các bản hiệp định đình chiến ở Việt Nam, Cǎmpuchia, Lào đã được ký kết. Các nước tham gia Hội nghị thông qua bản tuyên bố chung thừa nhận: Tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt Nam, Cǎmpuchia và Lào, quy định quân đội Pháp rút khỏi các nước Đông Dương và ở mỗi nước sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do để thống nhất đất nước.
Ngày 20-5, Hội nghị đã kết thúc thắng lợi. Các bản hiệp định đình chiến ở Việt Nam, Cǎmpuchia, Lào đã được ký kết. Các nước tham gia Hội nghị thông qua bản tuyên bố chung thừa nhận: Tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt Nam, Cǎmpuchia và Lào, quy định quân đội Pháp rút khỏi các nước Đông Dương và ở mỗi nước sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do để thống nhất đất nước.
* Do điều kiện chiến tranh. Quốc hội khoá I đã phải
kéo dài nhiệm kỳ 10 nǎm 1946-1960.
Chiến tranh kết thúc; Miền Bắc hoàn toàn giải phóng; Hiến pháp mới đã được ban hành ngày 8-5-1960, 97,52% cử tri trên toàn miền Bắc đi bỏ phiếu bầu cử Quốc hội khoá II. Có 362 người trúng cử, trong đó người trúng cử với số phiếu cao nhất là Chủ tịch Hồ Chí Minh, ứng cử tại khu Ba Đình - Hà Nội. Thành phần Quốc hội khoá II có 65 người thuộc các dân tộc ít người, 49 nữ, 40 thanh niên từ 21-30 tuổi, 46 nông dân, 20 bộ đội, 65 đại biểu làm công tác khoa học, nghệ thuật, giáo dục, 2 đại biểu tư sản dân tộc, 3 linh mục, 2 hoà thượng. Trong kỳ họp đầu tiên, Quốc hội khoá II đã bầu Bác Hồ Làm Chủ tịch nước, Bác Tôn là Phó chủ tịch nước và đồng chí Trường Chinh là Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Chiến tranh kết thúc; Miền Bắc hoàn toàn giải phóng; Hiến pháp mới đã được ban hành ngày 8-5-1960, 97,52% cử tri trên toàn miền Bắc đi bỏ phiếu bầu cử Quốc hội khoá II. Có 362 người trúng cử, trong đó người trúng cử với số phiếu cao nhất là Chủ tịch Hồ Chí Minh, ứng cử tại khu Ba Đình - Hà Nội. Thành phần Quốc hội khoá II có 65 người thuộc các dân tộc ít người, 49 nữ, 40 thanh niên từ 21-30 tuổi, 46 nông dân, 20 bộ đội, 65 đại biểu làm công tác khoa học, nghệ thuật, giáo dục, 2 đại biểu tư sản dân tộc, 3 linh mục, 2 hoà thượng. Trong kỳ họp đầu tiên, Quốc hội khoá II đã bầu Bác Hồ Làm Chủ tịch nước, Bác Tôn là Phó chủ tịch nước và đồng chí Trường Chinh là Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
* Ngày 8-5-1963, hai vạn đồng bào Huế, trong đó có một
vạn tǎng ni và tín đồ theo đạo Phật, phát động đợt đấu tranh chống chính quyền
Diệm khủng bố tôn giáo, phản đối lệnh cấm tổ chức lễ Phật đản và treo cờ Phật
trong các chùa. Cuộc đấu tranh được sự đồng tình rộng rãi của các sĩ quan và
nhân viên ngụy quyền Thừa Thiên - Huế, kể cả một số sĩ quan và nhân viên ngụy
quyền cao cấp. Bọn Diệm đã huy động cảnh sát, xe bọc thép, đại bác 37 ly đến
đàn áp, làm 13 người bị chết, nhiều người bị thương, gần 100 người bị bắt.
Phong trào đấu tranh của đồng bào Phật giáo càng phát triển mạnh mẽ.
* Cùng phối hợp chặt chẽ với đòn tiến công quân sự ở
các chiến trường, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh hơn nữa mặt trận đấu tranh ngoại
giao để tranh thủ thêm sự ủng hộ của nhân dân thế giới. Ngày 8-5-1969 trong
phiên họp toàn thể lần thứ 16 của Hội nghị Pari về vấn đề Việt Nam, đoàn đại
biểu mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam đã đưa ra giải pháp toàn bộ 10 điểm.
Nội dung của giải pháp toàn bộ 10 điểm thể hiện lập trường có tính chất nguyên
tắc và biện pháp sách lược mềm dẻo của ta trong việc giải quyết hoà bình vấn đề
miền Nam - Việt Nam, giải pháp đặc biệt nhấn mạnh hai vấn đề chủ yếu là vấn đề
Mỹ rút quân và vấn đề nội bộ giữa người Việt Nam với nhau ở miền Nam sau khi Mỹ
rút quân về nước. Giải pháp đã vạch ra ranh giới giữa đế quốc Mỹ là kẻ đi xâm
lược với nhân dân Việt Nam là người chống xâm lược.
Giải pháp toàn bộ 10 điểm đã đánh dấu một thắng lợi mới
về ngoại giao, một lần nữa khẳng định lập trường cứng rắn của Đảng ta, giải
pháp đã trở thành cương lĩnh đấu tranh của mặt trận nhân dân
* Từ ngày 8 đến 11-5-1978 tại Hà Nội đã diễn ra Đại
hội Công đoàn toàn quốc lần thứ tư.
Tham dự Đại hội có 826 đại biểu, trong đó có 444 đại biểu là công nhân và cán bộ quản lý, 135 đại biểu là anh hùng chiến sĩ thi đua.
Tham dự Đại hội có 826 đại biểu, trong đó có 444 đại biểu là công nhân và cán bộ quản lý, 135 đại biểu là anh hùng chiến sĩ thi đua.
Kể từ nǎm 1929 thành lập Công hội đỏ đến Đại hội Công
đoàn toàn quốc lần thứ tư này, lần đầu tiên giai cấp công nhân cả nước họp mặt
đông đủ nhất.
Đại hội đã nghe bài "Làm chủ tập thể phản ánh
bản lĩnh của giai cấp công nhân" của đồng chí Lê Duẩn. Đại hội đã
thông qua Báo cáo sửa đổi Điều lệ Công đoàn. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Tổng
Công đoàn Việt Nam do đồng chí Nguyễn Vǎn Linh làm Chủ tịch, đồng chí Nguyễn
Đức Thuận làm Phó chủ tịch kiêm Tổng Thư ký.
Thế giới
* Ngày 24-6-1859 tại Xônphêrinô, Bắc Ý, diễn ra một
cuộc chiến đấu ác liệt. Sau khi hai bên rút quân để lại trên trận địa gần
40.000 binh lính vừa chết, vừa bị thương nằm ngổn ngang không ai cứu chữa. Ông
Hǎngri Đuynǎng, một công dân Thụy Sĩ đi qua đã chứng kiến thảm cảnh đó, động
lòng trắc ẩn, liền đến các làng lân cận kêu gọi nhân dân tổ chức cứu chữa,
không phân biệt người bên nào. Nhiều người đã được cứu sống. Sau đó ông xuất
bản cuốn "Ký ức Xônphêrinô" tả lại thảm kịch đó và ông đề nghị
Chính phủ các nước thành lập "Hội cứu trợ thương binh" và ký kết một
công ước "Cứu trợ và bảo hộ thương binh".
Từ ngày 26 đến 29-10-1863 do chính phủ Thụy Sĩ khởi
xướng, một hội nghị quốc tế có 16 nước tham dự đã bàn về việc cứu chữa thương
binh trong chiến tranh. Hội nghị công nhận một dấu hiệu để bảo vệ thương binh
và bảo vệ những phương tiện phục vụ họ là dấu hiệu "Chữ thập đỏ viền
trắng" (là mầu sắc đảo ngược của quốc kỳ Thụy Sĩ) để ghi nhớ công lao và
sáng kiến của Hǎngri Đuynǎng.
Ngày 5-5-1919 một hội nghị quốc tế đã họp ở Pari quyết
định thành lập "Hiệp hội chữ thập đỏ quốc tế". Hiệp hội đã quyết định
lấy ngày 8-5, ngày sinh của Hǎngri Đuynǎng, là "Ngày chữ thập đỏ thế
giới" để tổ chức kỷ niệm nhằm tǎng cường hoạt động của Hiệp hội chữ thập
đỏ thế giới.
0 nhận xét:
Post a Comment